Nông dân ngủ (1931)- Picasso
1. Lời khuyên đầu tiên
Ở trường đại học ra, sau khi thu xếp được một chỗ làm việc tàm tạm, cái việc mà một thanh niên tự trọng hiện nay phải lo đầu tiên, theo tôi chưa phải là lo học thạc sĩ rồi lần lên tiến sĩ... mà là học để có được một ngoại ngữ có thể sử dụng tự do và trước tiên, dư sức đọc các tài liệu chuyên môn.
Mỗi khi có dịp trò chuyện với các bạn trẻ, lời khuyên đầu tiên tôi muốn nói - nếu như được yêu cầu có một lời khuyên - đơn giản như vậy. Đây là kinh nghiệm tự học của tôi, mà cũng là điều tôi rút đúc được, qua nhiều thành bại của các đồng nghiệp.
2. Nhận rõ vị thế của mình!
Các trường đại học mà bọn tôi theo học nhà cửa đơn sơ, phòng học nhiều khi chỉ là mấy gian nhà lá trống trải, sách vở và phương tiện thiếu thốn, cổ lỗ. Nay các trường đại học ở ta đã khang trang to đẹp hơn nhiều. Nhưng, theo chỗ tôi hiểu, trước sau trình độ đào tạo ở ta vẫn vậy, người sinh viên ra trường thường không nhập được vào guồng máy sản xuất của xã hội, còn so với trình độ đại học ở các nước tiên tiến thì lại càng không theo kịp (giá có muốn xin việc ở nước ngoài cũng không ai người ta nhận!)
Chúng ta chỉ được đào tạo rất sơ sài..., chắc chắn đây là điều mà các bạn trẻ đã nghe nhiều lần. Song biết lơ mơ là một chuyện, mà ghi tạc nó vào tâm trí, để biến thành ý chí, nghị lực trong hành động lại là một chuyện khác. Mà chỉ khi nào người sinh viên ở trường ra thấy đau đớn khổ sở vì mình chưa được học đến nơi đến chốn, tiếc cho tuổi trẻ của mình không vươn tới được cái tầm lẽ ra nó có thể vươn tới... thì người ta mới bắt tay vào tự học thực sự, tự học có kết quả.
Nhưng làm thế nào để biết rằng mình còn đang kém cỏi, nếu không đọc rộng ra sách báo nước ngoài? Xin phép được lấy ví dụ từ kinh nghiệm bản thân: Nhờ tự học tiếng Nga, hiểu văn học Nga (và chút ít văn học phương Tây qua tiếng Nga) mà tôi có điều kiện để nhìn nhận văn học Việt Nam phần nào thấu đáo hơn, cũng như quan niệm của tôi, cách hiểu của tôi về văn học nói chung, trong chừng mực nào đó, cũng trở nên hợp lý hơn. Một số bạn trẻ gần đây chỉ lo học ngoại ngữ để giao thiệp, trong khi đó học để đọc sách, kể cả “đọc” qua máy tính... mới là việc chủ yếu của người muốn tự học.
3. Tinh thần lập nghiệp.
Ta chỉ hay nói lớp trẻ nên khiêm tốn biết ơn những người đi trước... Song có một tinh thần nữa mà người thanh niên ngày nay phải thấm nhuần, ấy là không thoả mãn với kiến thức được truyền thụ, coi rằng moi việc người trước đã làm đều chưa hoàn thiện, thế hệ mình còn phải tiếp tục; hoặc trong khi chấp nhận sự hoàn thiện của người đi trước, thì vẫn tin rằng thế hệ mình sẽ có cách làm khác, để đi tới một sự hoàn thiện mới. Về mặt đạo đức mà xét, cách tốt nhất để thế hệ đi sau tỏ lòng biết ơn với những người đi trước, là tìm cách vượt lên trên họ. Sự hiểu biết kỹ lưỡng về thành tựu của những người đi trước là nhân tố có vai trò kích thích người trẻ tiếp tục khai phá mở đường.
4. Mấy “chiêu thức” cần thiết
Có nhiều “động tác” mới nhìn tưởng là chuyện nhỏ, song lại có ý nghĩa quyết định và các bạn trẻ mới bắt tay tự học nên biết :
1/. Các loại sách từ điển bách khoa cho phép người ta có được bức tranh toàn cảnh về một lĩnh vực kiến thức nào đó, bởi vậy, với những người tự học, là một công cụ thật thuận tiện. Vả chăng không phải chỉ tra một từ điển, mà có khi mò mẫm tra nhiều từ điển khác nhau, để tìm ra cái tối ưu. Khi sử dụng Bách khoa toàn thư, không nên quên theo dõi phần thư mục của nó, để tìm xem chung quanh vấn đề mình đang theo đuổi có những quyển sách nào đáng đọc nhất, rồi dành thời gian đọc bằng được. Theo cách này, tôi đã có thể hiểu kỹ thêm vài môn học mà quả thực, lúc học ở trường, chưa được các thày dạy, hoặc dạy quá sơ sài, thậm chí là dạy sai nữa.
2/ Trong khi tự đặt cho mình một kỷ luật làm việc, đồng thời ta nên dành ra những khoảng trống tự do, để từ lĩnh vực mình phải học, đọc lấn sang các lĩnh vực khác. Ví dụ, trong khi học về văn học, tôi đồng thời có ý tìm đọc thêm sách sân khấu, hội hoạ, có lúc lan man sang cả sinh học, cơ học lượng tử... Không bao giờ tôi coi những bước lang thang này là mất thì giờ, ngược lại, thấy biết ơn những kiến thức xa lạ ấy, vì nhờ có chúng, những suy nghĩ của tôi về văn chương và đời sống trở nên mềm mại hơn.
3/ Nên biến việc tự học thành một việc hữu ích. Tức là người tự học cũng nên tính tới những sản phẩm cụ thể, và nếu những sản phẩm này biến thành hàng hoá, mang lại cho đương sự một số tiền nho nhỏ thì...càng tốt. Tôi nhớ hồi đang mê đọc các thứ lý luận về tiểu thuyết, tôi đồng thời nhận làm các bản lược thuật cho Viện thông tin khoa học xã hội. Đáng lẽ chỉ tuỳ tiện ghi lại kiến thức vào sổ tay thì tôi phải trình bày lại chúng một cách sáng sủa, để người khác có thể sử dụng được. Tiền thu được chẳng là bao, nhưng nó buộc tôi phải làm công việc của mình một cách nghiêm túc.
5. Bản lĩnh và may mắn
Bên cạnh yếu tố chủ quan của người đi học, thì việc học hỏi thành bại hay không còn phụ thuộc vào ông thày. Người tự học phải biết tìm thầy cho chính mình. Và nếu như sau một thời gian đọc hàng núi sách, anh chợt nhận ra mình toàn loay loay với những cuốn sách hạng ba hạng tư, thời giờ đã mất, mà kiến thức thu được chẳng bao nhiêu, thì người đáng để anh ta buông lời trách móc lại là chính bản thân anh - oái oăm là ở chỗ đó!
Thường nhìn vào khoa học, người ta dễ bắt gặp một khung cảnh ồn ào lộn xộn. Vậy nên khi bước vào đó, người tự học luôn luôn cần có một chút tỉnh táo để biết trong trường hợp của mình, thầy nào đáng theo, sách nào đáng đọc kỹ trước tiên. Tức là phải có được một bản lĩnh nhất định, và cả một chút may mắn nữa.
Nói là phải đọc hàng ngàn cuốn sách, hàng vạn bài báo khác nhau, song người có kinh nghiệm đều biết trên con đường tự học thực ra chỉ có một hai cuốn sách nào đó với bản thân là có ý nghĩa nhất: những quyển sách ấy làm thay đổi cả hướng đi của mình, do đó cả cuộc đời mình. Nếu như bằng trực giác, bằng mẫn cảm, ta đã tìm được một hai cuốn sách lớn, và biết coi nó là bạn đồng hành suốt đời, đọc mãi không chán, thì hoàn toàn có thể tự coi là mình biết học, và may mắn ấy, không phải ai cũng có.
Nhấn mạnh một chút hên xui không phải để làm chùn bước các bạn trẻ : chính những đỏng đảnh bất định này lại là chút muối mặn mà làm cho công việc tự học của chúng ta không bao giờ nhàm chán.
Trong số rất nhiều định nghĩa về con người hiện đại, có một định nghĩa đơn giản như sau: Đó là con người biết làm ra chính mình.
Theo tiêu chuẩn này mà xét, thì người biết tự học luôn luôn là con người hiện đại./.
1998
Một lần nữa tặng Zelda - Zelda Sayre, con gái út của ông chánh án tòa án tối cao tiểu bang Alabama, người đã hẹn với chàng trai 22 tuổi F. Scott Fitzgerald là sẽ yêu và lấy chàng nếu chàng đảm bảo được đời sống nhung lụa mà nàng đã quen sống từ nhỏ, đã hủy bỏ hôn ước vì phải đợi lâu quá một năm trời, rồi đùng một cái lại đồng ý cưới khi Fitzgerald bỗng nổi tiếng và giàu có với thành công bất ngờ của cuốn tiểu thuyết đầu tay This Side of Paradise - Bên này Thiên đường, ra năm 1920.
Cuốn thứ hai The Beautiful and the Damned - Mỹ nhân và kẻ bị nguyền rủa (1922), cũng được ông đề tặng Zelda, không mang lại tiền bạc và danh tiếng cho ông như cuốn đầu. Và cuốn thứ ba The Great Gatsby (1925) mà bạn đọc đang có bản dịch mới trong tay đây cũng vậy, mặc dù ông vẫn đề Một lần nữa tặng Zelda. Năm 1930 Zelda bắt đầu phát điên. Bốn năm sau đó, khi cuốn Tender is the Night - Dịu dàng là đêm tối của ông cũng không thành công như mong đợi, Zelda không bao giờ rời bệnh viện tâm thần nữa. Fitzgerald kiếm tiền để duy trì nếp sống xa hoa và chăm sóc Zelda nhờ những truyện ngắn và hợp đồng viết kịch bản phim với Hollywood. Ông có tổng cộng 150 truyện ngắn đăng rải rác trên nhiều tạp chí và được xuất bản thành ba tuyển tập. Tuy nhiên, khi qua đời vì một cơn đau tim năm 1940 ở tuổi 44, ông đã gần như hoàn toàn rơi vào tình trạng bị quên lãng. Bản thảo The Love of the Last Tycoon - Mối tình của Đại soái cuối cùng, có thể đã là tác phẩm lớn nhất của ông, vẫn còn dang dở. Tám năm sau, Zelda, giấc mơ đã lụi tàn của ông, chết trong ngọn lửa hỏa hoạn ở chính bệnh viện tâm thần mà bà vẫn sống từ 1934.
Cái chết của Fitzgerald cũng không khác là bao so với cái chết của Gatsby - nhân vật sẽ lưu danh ông mãi mãi. Cả hai đều là con sinh hiến tế cho the American Dream - Giấc mơ Mỹ, giấc mơ duy mỹ về một cuộc sống đẹp đẽ và hoành tráng nhất mà loài người từng có khi những con người từ châu Âu bi thảm - nạn nhân của những giấc mơ đẫm máu về một thế giới bình đẳng hạnh phúc và giầu có - lần đầu tiên đặt chân lên vùng đất non tơ kỳ vĩ và choáng ngợp trước “vồng ngực tươi trẻ xanh mướt của thế giới mới”.
Cũng lạ lùng là khi mới ra đời, Fitzgerald đã có tên đầy đủ là Francis Scott Key Fitzgerald để vinh danh người anh họ Francis Scott Key - tác giả bài quốc ca của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Hình như Giấc mơ Mỹ đã là số phận của ông thật.
Vậy Giấc mơ Mỹ là gì? Nó được tuyên cáo khi nước Mỹ ra đời và trở thành một quốc gia độc lập ngày 4/7/1776: We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness. Nó chẳng lạ gì đối với người Việt Nam, vì chính lời tuyên cáo ấy đã được chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn làm lời mở đầu cho bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Nhưng thật ra Giấc mơ Mỹ không phải là lời tuyên cáo ấy. Giấc mơ Mỹ là cái hứa hẹn rằng chỉ có ở nước Mỹ lời tuyên cáo hùng hồn ấy mới có cơ hội trở thành hiện thực đối với tất cả những ai có can đảm theo đuổi nó đến cùng; vì chỉ ở Mỹ con người mới có bình đẳng về cơ hội. Ở đoạn kết bài quốc ca của mình, người Mỹ hát rằng đất nước họ là the land of the free and the home of the brave - đất của những con người tự do và nhà của những con người can đảm.
Giấc mơ Mỹ vẫn đang phập phồng trong giấc ngủ đêm cũng như ngày của hàng triệu người trên thế giới ngày nay, và tôi tin rằng người Việt cũng đang ấp ủ nó, ngày càng nhiều, nhất là trong giới trẻ. Tôi cũng tin rằng chính vì thế mà The Great Gatsby đang và sẽ còn mang những ý nghĩa nóng hổi đối với người đọc trên khắp thế giới, đặc biệt là bạn đọc Việt Nam. Và cũng chính vì thế mà tôi đã quyết định dịch The Great Gatsby là Đại gia Gatsby.
Dưới đây là phần giới thiệu về bối cảnh của The Great Gatsby trong một tài liệu được sử dụng rộng rãi trong các trường học tại Mỹ hiện nay:
“Về mặt chính trị, đó là một giai đoạn tăng trưởng và phồn thịnh, và cũng là một thời hoàng kim của tham nhũng. Sau Đại chiến I, khi Warren G. Harding lên làm tổng thống năm 1920, mục đích chính của ông là phát triển kinh tế dựa vào doanh nghiệp. Tuy nhiên, chính quyền của ông lại tràn ngập tham nhũng và bê bối, bị giới lao động căm ghét và là mục tiêu hối lộ của các tội ác có tổ chức. Chính quyền chỉ bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp với những chính sách bất cập và lúng túng về những vấn đề cơ bản như mức lương tối thiểu, hợp đồng lao động, tổ chức công đoàn, vân vân. Ngoài ra, cả Harding lẫn tổng thống kế nhiệm ông là Calvin Coolidge đều có những chính sách thuế chỉ làm lợi cho doanh nghiệp và người giầu. Chính sách kinh tế cũng khiến cho các ngành nông lâm nghiệp và khai thác mỏ lâm vào tình trạng đình đốn, dẫn đến hiện tượng người nghèo ở nông thôn kéo nhau ra thành phố tìm đường sinh sống, gây nên nạn đô thị hóa tràn lan còn để lại di hại cho đến tận hôm nay. Đại đa số những người nghèo ấy không bao giờ thoát khỏi thân phận sống lay lắt ngoài lề xã hội, như những người trong thung lũng bụi mà The Great Gatsby đã mô tả.
Về mặt kinh tế, thập kỷ 1920 là thời kỳ hoàng kim của tầng lớp trên trong xã hội Mỹ. Giai đoạn 1922-1929, lợi tức thu được từ cổ phiếu tăng 108 phần trăm, lãi của các công ty tăng 76 phần trăm, và lương bổng tăng 33 phần trăm. Nhân vật Nick Carrway tìm đường sang miền Đông buôn trái phiếu là có lý do thực tế. Tiến bộ công nghệ và năng suất gia tăng đã làm giảm giá thành sản xuất, và kinh tế tăng trưởng rất nhanh.
Phát triển thương mại dẫn đến tình trạng xã hội chỉ còn quan tâm đến vật chất, phản ánh rất sắc nét trong The Great Gatsby. Người ta bắt đầu có tiền, và bắt đầu mua sắm. Càng mua sắm nhiều thì lời lãi càng tăng, sản xuất hàng hóa càng nhiều, và người ta càng kiếm được nhiều tiền hơn, khiến cho kinh tế gia tăng như trong một vòng tròn xoáy ốc. Người ta bắt đầu tiêu tiền để mua ôtô, đài đóm, điện thoại, tủ lạnh... với tốc độ chóng mặt. Và người ta bắt đầu tiêu tiền và thời giờ để ăn chơi giải trí. Thể thao bắt đầu thành chuyên nghiệp và một thứ kinh doanh với đủ thứ bê bối tham nhũng của riêng nó. Báo chí, phim ảnh và nhà hát bắt đầu góp phần phổ biến và khuyến khích tư tưởng hưởng thụ vật chất ngày càng gia tăng, đến mức độ tục tĩu vô liêm sỉ, như những màn trình diễn gái nhảy hoa hậu được nhắc đến trong The Great Gatsby.
Để ngăn chặn tình trạng đạo đức suy đồi, năm 1919, chính phủ thông qua Tu chính án thứ 18 của Hiến pháp Hoa Kỳ, cấm sản xuất, mua bán hoặc chuyên chở tất cả mọi loại rượu, cho rằng nạn uống rượu là nguồn gốc của nhiều tệ nạn xã hội khác. Mặc dù được hàng triệu người ủng hộ, hàng nhiều triệu người Mỹ khác vẫn bất tuân luật pháp, và sản xuất buôn bán rượu lậu đã trở thành một hoạt động phi pháp lời lãi kinh khủng, với sự tham gia của các tổ chức tội ác. Hiện tượng này, cộng với và được thúc đẩy bởi sự tham nhũng của chính quyền, đã sản sinh ra một tầng lớp đại gia mới giàu mà đại diện là Gatsby và Wolfsheim trong cuốn tiểu thuyết này. Có thể hiểu được tại sao Fitzgerald lại có nhiều nhân vật uống và say rượu đến thế trong The Great Gatsby. Năm 1933, Tu chính án này đã được loại bỏ khỏi Hiến pháp Mỹ, chấm dứt thời kỳ hoàng kim của các đại gia buôn rượu lậu.
Về mặt xã hội, những năm 1920 đánh dấu một thời kỳ của những thay đổi lớn, đặc biệt là với phụ nữ. Để chứng tỏ mình đã được giải phóng, phụ nữ Mỹ bắt đầu cắt tóc ngắn, không mặc nịt vú và những thứ áo bó khác vẫn được dùng để làm nổi bật những nét nữ tính của mình như ngày xưa, và họ bắt đầu công khai hút thuốc và uống rượu, đi đôi với hành vi tình dục bừa bãi và tư tưởng coi ngoại tình là tự nhiên, là thời thượng. Các nhân vật nữ trong The Great Gatsby đã phản ánh sinh động hiện tượng đổi thay này.”
Chao ôi, những tương tự với xã hội Việt Nam ngày nay thật đáng giật mình. Chỉ hiềm một nỗi: nước Mỹ đầu thế kỷ 20 tự thân thay đổi chứ không cần phải có đầu tư ngoại quốc và WTO. Họ cũng không cần bắt chước ai. Còn ở ta...
Nhưng mình hãy nói chuyện Gatsby cái đã. Đấy, tôi đã dùng mấy đoạn bối cảnh trên để bạn đọc hiểu lý do tại sao tôi dịch The Great Gatsby là Đại gia Gatsby. Và có lẽ tôi cũng chỉ nên bộc bạch thêm một điều nữa thôi. The Great Gatsby không phải là một tụng ca về Giấc mơ Mỹ đâu, cũng hoàn toàn không phải là một câu chuyện về “rượu gin và tình dục như hai món chơi quốc hồn quốc túy của Mỹ” như một bài của tờ The New York Times đã viết một cách rất vô trách nhiệm, mà là một áng thơ cay đắng diễm lệ về sự rỗng tuếch của Giấc mơ Mỹ. Bạn đọc hãy để ý thật kỹ đoạn mở đầu và đoạn kết thúc của tiểu thuyết này. Chúng khiến cho toàn bộ những rác rưởi vô bổ trong hầu hết câu chuyện trở thành quặng vàng của những tư tưởng cao nhã đến nghẹt thở. Tôi ghét tất cả các nhân vật trong The Great Gatsby, trừ người kể chuyện. Tôi cho rằng Nick Carraway là hóa thân văn chương tuyệt luân của F. S. Fitzgerald. Với Nick, tôi đã vỡ ra được một điều rất giản dị: mọi tuyên ngôn về bình đẳng chỉ là giả hiệu, và cái bất bình đẳng tai hại nhất của xã hội loài người không phải là cái bất bình đẳng về cơ hội, mà là cái bất bình đẳng về “chuẩn mực nhân cách cơ bản”. Không, ông bố Nick và Nick, nghĩa là chính Fitzgerald, đã không “hợm hĩnh” tí nào đâu khi dám nói ra điều ấy. Chính cái tiên thiên bất túc này của con người đã khiến cho giấc mơ duy mỹ lớn lao cuối cùng của mình mãi mãi chỉ là quá khứ.
Fitzgerald đã khiến tôi bực bội, chán ghét, căm tức đến mức đã phải một mình chạy ra quán bia hơi vừa uống vừa chửi thật bậy cho bõ ghét cái cõi đời vô minh hỗn loạn tham tàn đến cùng cực này. Nhưng khi dịch đến đoạn Nick bắt tay Tom vì nghĩ rằng anh ta chỉ là một đứa trẻ, tôi đã nhớ đến Jesus Christ và Phật Thích ca. Và khi Nick nhắc đến “một buổi sáng đẹp trời” ở cuối sách, tôi lại tin ngày mai mình sẽ có can đảm đọc tin hàng ngày, nghĩ đến những người quen biết... Ông đã làm cuộc sinh tồn này hiển lộ đến khủng khiếp, mà cũng khiến cho cái hạt mầm hy vọng dai dẳng đến lạ thường của hiện hữu phải lộ diện, không phải như một viển vông can đảm, mà là đúng như nó vẫn thế. Và ông làm việc ấy với những con chữ sinh động nhiều tầng nghĩa đầy thi tứ.
Gatsby chỉ là đại gia. Người tạo ra Gatsby mới thực sự vĩ đại.
Trịnh Lữ
Hà Nội, một ngày nóng lạ thường của năm 2008.
![]() |
Tây "balô" mua sắm tại chợ Cần Thơ |
Tương tự phố Lê Lai, Đề Thám, Phạm Ngũ Lão tại TP. Hồ Chí Minh, từ hàng mấy chục năm nay, khu vực Ngô Đức Kế, Hai Bà Trưng dọc Bến Ninh Kiều, Cần Thơ là điểm hẹn của “Tây ba lô” từ TP. HCM về miền Tây và từ Campuchia qua Châu Đốc để lên TP. HCM. Quanh những ông khách Tây đã có vô số điều thú vị nhất là họ không hề là đối tượng để các chủ tour, chủ nhà nghỉ... “liếc dao lam mà chém”.
Đừng tưởng Tây là khách sộp
Những tháng cuối năm như hiện nay khách tây về rất đông. Vừa để nghĩ Giáng sinh, Tết dương lịch mặt khác thời điểm này khí hậu ở miền Tây lại vô cùng mát mẻ.
Khách sạn Huy Hoàng làm một địa điểm được các Tây ba lô chuyền tay nhau mỗi khi đến Việt Nam. Và đây cũng là đầu mối để đón khách của Sinh cafe và Kim cafe theo đúng “tiêu chuẩn” Tây ba lô - giá rẻ, an toàn, vệ sinh. Một hướng dẫn viên (HDV) kỳ cựu cho biết, hiện giờ Tây chỉ khoái đi theo lộ trình về Mỹ Tho (Tiền Giang) sau đó nghỉ đêm tại Cần Thơ rồi lên Châu Đốc sang Campuchia và ngược lại.
Và cũng vì ưa khám phá nên ở Cần Thơ họ ít khi la cà vào những quán xá sang trọng, xập xình đèn màu, nhạc nhiếc. Họ chỉ thích tham quan chợ nổi bằng ghe tam bản, đến vườn trái cây và đi xuyên qua các kinh rạch chằng chịt. Tối đến thích ngồi xe lôi chạy lòng vòng thành phố, rất tiếc bây giờ phương tiện chuyên chở này đã bị cấm.
Các hướng dẫn viên bây giờ cũng khó mà lôi kéo họ đi mua sắm hàng hoá mắc tiền. Cần gì họ lại lội bộ đến Cần Thơ Co-op mart mua, vừa đảm bảo chất lượng lại không bị hớ. Các chủ quán ăn chuyên phục vụ khách Tây cho biết, họ chuyên phục vụ Tây ba lô, với giá cực mềm. Một ông Tây bụng to kềnh nhưng chỉ cần độ 1 USD là đảm bảo no (!). Đa số bảo – lấy công làm lời. Giá phòng tại đây lại càng bèo hơn khi phòng lạnh giá chỉ 8 -10USD/phòng/2 người, phòng quạt 4-5USD/phòng/2 người.
Thú vị là các chủ khách sạn bình dân thường… kiêm luôn thông dịch, mặc dù chưa có bằng A, B gì ráo. Một chủ khách sạn bảo: “Vậy mà nói Tây hiểu, tụi nó nói tui cũng hiểu luôn nhưng cũng phải đón ý và ra dấu dữ lắm”. Anh Hoàng lái xe cho Công ty Phương Nga TP. HCM cho biết: “Tui chuyên chở Tây từ hơn 22 năm nay. Tui rành họ lắm, họ thích dân dã thôi, tiết kiệm cò kè từng xu. Tên nào tên nấy quẩy ba lô to đùng cỡ cao trên 1 mét, nặng hai ba chục ký vậy mà đi tản bộ tỉnh bơ. Gặp khách Việt có mà le lưỡi”.
Tây "ba lô" muốn gì?
Khu vực bến Ninh Kiều Cần Thơ là nơi tập trung nhiều quán ăn chuyên phục vụ du khách nước ngoài, nơi đây du khách có thể tản bộ hóng gió sông, hoặc nhìn ngắm các cửa tiệm bán trái cây đặc sản Miền Tây. Một ông chủ cho biết: “Tui mở tiệm từ năm 1965 tới nay. Đa phần là khách Tây. Họ thích đến là vì tui đảm bảo luôn có khoảng 150 món tây, 200 món Á. Lính của tui thấy dân dã vậy chớ thông thạo 4 thứ tiếng (Anh, Pháp, Hoa và Nhật)”. Mà quả là đến chiều tối khách Tây vào ăn chật quán. Ông Gibbon Malcolm, du khách Mỹ thường ăn ở quán Mêkong cho biết: “Tôi rất thích ăn canh chua cá bông lau, cá lóc kho tộ ở đây. Lại càng thích ăn bánh xèo, gỏi cuốn, chả giò chấm... nước mắm. Từ ông chủ cho tới nhân viên chạy bàn đều nói tiếng Anh tốt nên tôi đỡ buồn khi có người tán chuyện”.
Các ông chủ, bà chủ khách sạn tiết lộ, Tây ba lô thường chỉ ăn vào số lượng đông, còn năm khi mười hoạ mới trúng mánh khi gặp khách va li. Bà Thuỷ hóm hỉnh nói: “Tụi Tây ba lô trùm lắm, họ ăn uống rất tiết kiệm, có khi vô một bàn chỉ chọn đậu xào, gà ram mặn, không uống gì cả. Mỗi món chỉ 8.000 đồng mà thôi. Nhưng gặp Tây vali thì họ ăn uống rất cầu kỳ. Đừng tưởng họ không ăn thú rừng hoang dã. Món ăn bán chạy nhất của Phương Nam là rắn xào sa tế, rắn xào lăn và rắn xào củ hành. Một đĩa độ chừng bốn năm chục ngàn gì đó”. Anh Phạm Bán Nguyên, một HDV ở TP. HCM thường đưa khách xuống miền Tây cho biết, điểm hấp dẫn khách Tây là được khám phá các loại trái cây, thực phẩm và nông cụ của nông dân. Mỗi khi đi vườn cây ăn trái, đường làng, cầu khỉ, gặp những lúc dỡ chà hay kéo vó là họ dừng lại chụp hình, quay phim rất lâu.
Nói về Tây va li, anh Lê Thanh Quí, Giám đốc khách sạn Sài Gòn – Cần Thơ cho biết: hầu hết khách tây vali họ đi là có thông dịch hướng dẫn, hàng lý chủ yếu là quần áo, mỹ phẩm, tiêu chí của họ là đi đi du lịch để thưởng thức, thư giãn. Thường thì trong hệ của SaiGon tourist, khách cao cấp thường ở Vitoria, bậc trung thì chọn Sài Gòn – Cần Thơ, còn không thì ở Hậu Giang A. Tây vali ít đi đêm trong thành phố mà thường họ ăn uống rồi lên quầy bar uống cafe nghe nhạc, sau đó thư giãn saunna, massage. Mới đây, có một cặp vợ chồng già người Pháp đã đến KG Sài Gòn- Cần Thơ lưu trú cả tháng trời. Họ cho rằng, ở đây (Việt Nam) chúng tôi rất yên tâm vì không sợ cướp giật hay khủng bố.
Lý do của họ đơn giản chỉ vậy. Nhiều người tiết kiệm chi tiêu từng xu chỉ để được đón thời khắc chuyển giao năm mới trên sông nước miền Tây. Dân mình thì chỉ mong họ đi rồi họ lại đến.
Đông Thức
In Vietnam, café sua da is an antidote to the thick heat and the perfect way to refuel.
At Café Terrace, a trendy spot in the city's center, you can drink your coffee outside beneath an umbrella, or retreat to the stylish, air-conditioned interior, decorated with red curtains, vases of white lilies and lots of pretty people lounging in comfy chairs.