Thứ Sáu, 27 tháng 3, 2009
một bức tranh đẹp
Một bức ảnh đẹp
Bức hình này đẹp quá, rất nữ tính, và rất xao lòng.
Không hiểu sao, mình có một cảm giác man mác nào đó xa xôi, một cảm giác của những ngày thơ bé, có gì đó cũ kỹ thân mật...
Thứ Năm, 26 tháng 3, 2009
Thứ Ba, 24 tháng 3, 2009
Gốm sứ nhà quê và mẹ tôi
Có một điều, không hiểu sao, mẹ của mình không được học hành những kiến thức nghiên cứu cao sâu này, nhưng bà vẫn yêu thích và có một điều gì đó như là giành tấm lòng với những đồ sành gốm sứ của quê hương. Mẹ lúc nào cũng chỉ thích những chiếc bát của Bát Tràng giản dị, những bình hoa men xanh lam mộc mạc đặt lên bàn thờ, những vại dưa bằng sành vỏ nâu lòng màu xám trám đen. (Cái vại dưa nhà mình không biết bao nhiêu tuổi rồi, đi kèm với cái đĩa nén dưa cũng cũ rích). Mẹ không thích sứ Minh Long choáng ngợp, và văn hoa dập khuôn. Mẹ bảo, những nét vẽ tay trên gốm sứ nhà quê trông ... rất hay, thế mới đẹp. Mẹ chỉ thích đồ nhà quê... Lạ thật, vì sao người ta có thể tự dưng có một tình yêu lạ thường như thế, dù chẳng ai dạy, hoặc truyền thụ cho biết ý nghĩa.
Gốm Chu Đậu, một vài tác phẩm tuyệt đẹp.




cái lư hương này điệu chưa!!


Thứ Tư, 18 tháng 3, 2009
Sống thế nào cho vui sướng

Từ trước đến nay, trong đời mình, thấy có 3 kiểu sống sung sướng.
(đang kể sống sướng nhá, chứ ko có bàn gì đến sống mòn sống khổ gì đâu đấy!)
1. Sống ngây thơ, hồn nhiên, không cần phải chú ý lưu tâm đến những khúc mắc phức tạp mà hàng ngày ta nhìn thấy, ta nghe thấy. Hoàn toàn là trẻ con, dù có 40 hay 50 tuổi đi nữa. Cứ ca hát, cứ tận hưởng những gì đang có. Sao mà phải sống phức tạp. Cuộc đời giản dị là cuộc đời hạnh phúc. Mỗi ngày ta vui với hoa tươi, quả ngọt, lời ca tiếng hát... thế thôi!!
2. Cứ mỗi lần nhìn thấy những vấn đề và phức tạp trong cuộc sống, buồn ghê lắm, thao thức ghê lắm. Nếu những vấn đề đó lại của chính mình nữa, thì vật vã, ức chế, đau khổ, cực hình. Nhưng khi đã vượt qua rồi, thì cảm thấy lòng vô cùng phơi phới, nhẹ tênh, vô cùng hạnh phúc vì đã trải qua một kinh nghiệm quan trọng trong cuộc đời, trưởng thành hơn một chút, thấy đời có ý nghĩa hơn một chút, thở phào, hà... mình cũng vượt qua được một game. Rồi ngày mai, rất có thể lại kỳ cạch trải nghiệm thêm một đau khổ nữa.
3. Hay là những người luôn bình thản trước mọi vấn đề của cuộc sống, luôn phân tích các vấn đề đó, và rút ra kiến thức. Họ không buồn với những xì căng đan của xã hội, chả muốn chửi bới ông nọ bà kia gì. Họ không bao giờ tiếc nuối quá khứ, và ao ước tới tương lai. Với họ, thời điểm nào cũng có giá trị như nhau. Mọi vấn đề đều được lưu lại trong history - bộ nhớ. Vấn đề ngày hôm nay, có lý do của ngày hôm qua, và có thể gây tác động cho ngày mai. Mọi lố bịch và lố lăng trước mắt họ đều có logic, và nó vui vẻ như là xem truyện tranh. Cuộc đời rất logic và hài hước.
Em cũng thèm sống được thế lắm, thầy. Nhưng ... ko tài nào. Chắc là trình chưa đủ !!

Xem phim Mighty Heart, mới thấy quả mindmap này lợi hại thật, mà chẳng dễ gì cả.
lạc đề tí...
Thứ Ba, 17 tháng 3, 2009
Ngồi mát ăn bát vàng
Cái công việc thu hồi, đòi lại cổ vật, là công tác của các cán bộ. Anh Chuông tham gia vào công việc này, phải trả tiền công cho anh chớ. Họ chỉ ngồi mát ăn bát vàng thôi. Anh Chuông là người thật thà, nên cứ đúng theo quy định mà làm. Chứ như những phường con buôn, họ tội gì mà ngồi lẩn mẩn kê khai cho rách việc, thó mẹ vài cái bát cái nồi cổ, giữ làm của riêng, còn lại khai nhiêu thì biết nhiêu...
Còng lưng ra làm không công, chẳng được đồng xu bạc cắc nào, thời gian cũng tiêu tốn vào việc này, chẳng thể làm việc gì khác mà kiếm ăn, nợ ngân hàng thì chồng đống chồng khiêng, quan chức thì chưa có hứa hẹn gì, di sản phải nộp lại cho bảo tàng. Rồi anh sẽ được lại gì. Đúng như anh Chuông nói, thà đừng vớt cái tàu này lên. Cái tàu cũng giống như sự tích con voi trắng của Ấn Độ. Là con voi thần thánh, vua sẽ ban cho kẻ có tội, để anh ta phải nuôi nó cho kiệt cùng tài sản, mà ko được giết con voi.
| |
“Nhiều người bảo tôi vớ bẫm. Ai biết, mấy tuần nay, cả nhà tôi như ngồi trên đống lửa", anh Chuông, người vớt được chiếc tàu cổ than thở khi chiếc tàu đã bị thu hồi. | |
(TT&VH) - “Nhiều người bảo tôi vớ bẫm. Ai biết, mấy tuần nay, cả nhà tôi như ngồi trên đống lửa. Bao nhiêu tiền vốn bỏ ra hết, cộng thêm một đống nợ ngân hàng, không biết bao giờ tôi mới có lại số tiền hơn 200 trăm triệu này…” - anh Hà Công Chuông, người tổ chức trục vớt chiếc tàu cổ trên sông Hồng kể. Sáng qua 16/3/2009, chiếc tàu này đã chính thức bị thu hồi bởi UBND tỉnh Hưng Yên.
Cuối tuần qua, UBND tỉnh Hưng Yên đã chính thức ra quyết định thu hồi con tàu cổ mà anh Chuông trục vớt từ giữa lòng sông Hồng. Sáng qua 16/3/2009, đại diện các cơ quan chức năng đã đọc quyết định trên tại hiện trường xã Đại Tập - nơi tàu cổ đang được cố định. Việc nghiên cứu, phục dựng tàu cổ sau khi thu hồi được giao cho Bảo tàng Hưng Yên. Còn trước mắt, trong lúc chờ tìm ra phương án “khênh” 2 mảnh tàu cổ về Bảo tàng Hưng Yên, công an xã Đại Tập vẫn có nhiệm vụ bảo quản, trông giữ con tàu đã gãy làm đôi này. Anh Chuông và phần đuôi chiếc tàu cổ Theo thông tin từ địa phương, sau khi tàu cổ được trục vớt vào ngày 5/3/2009, một số hiện vật trên tàu như bát, các mảnh đồng lá bọc ngoài tàu… cũng bị thất thoát vì nạn “hôi của” của những người xung quanh. Về phần mình, anh Chuông hiện đang có nhiệm vụ phải thông báo và kê khai rõ về số hiện vật nằm trong thân tàu khi vớt. Trong trường hợp trót để thất thoát những hiện vật đó, anh Chuông phải đi liên hệ và vận động họ cùng tham gia giao nộp lại cho Nhà nước. Nếu cố tình tổ chức buôn bán, tẩu tán cổ vật thì Chuông sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật - một cán bộ của ngành văn hoá Hưng Yên cho biết thêm. Hiện tại, chiếc tàu vẫn đang được chính quyền xã Đại Tập huy động 4 công an và 12 dân quân để luân phiên trông giữ ngày đêm. “Cần nhất ở anh Chuông lúc này là tinh thần hợp tác”
Hiện tại, 2 tuần qua, anh Chuông vẫn cắm lều bạt ngủ lại trên bãi sông Hồng trong quá trình làm việc với địa phương. Theo lời anh, ngoài các thủ tục trong khi làm việc, anh vẫn được đề nghị khai báo thật chính xác về số cổ vật vớt được trên tàu. “Dân trong vùng còn đồn ầm lên là tôi vớt được mấy bộ bát đĩa bằng đồng cổ. Trong khi thực tế, tất cả chỉ có vài cái bát thôi. Chẳng có chữ gì trên đó cả, nên tôi có cho người dân một cái, một cái thì nộp cho bảo tàng. Bây giờ, nếu họ yêu cầu thì tất nhiên tôi cũng sẽ đi tìm để xin lại cái bát ấy bằng được” - anh Chuông kể. Nói về khoản tiền 224 triệu đồng bỏ ra, anh kể: lúc mới làm, tôi tưởng tất cả chỉ mất một tuần. Ai ngờ dưới cát là đất rắn, càng làm càng khổ. Mà cái nghề này đau lắm, đã trót làm, biết là lỗ nhưng vẫn phải cố vớt được lên để gỡ lại, nếu không thì mất trắng cả. Bây giờ, nợ ngân hàng Hưng Hà (Thái Bình) một đống tiền, vợ con tôi ở nhà ngày nào cũng điện lên hỏi xem có được mang tàu về bán không? Rồi anh Chuông than thở: “Học hành ngắn nên tôi phải đi làm cái nghề vất vả này thôi. Khi đưa tàu vào bờ, họ bảo tôi vi phạm gì đó về việc khai báo trong lúc vớt cổ vật, tôi chẳng biết nói thế nào anh ạ. Cục quản lý đường sông đã có giấy đồng ý rồi, nhưng lúc đó họ chưa biết tàu ấy là cổ vật. Biết thế này, tôi đã tránh xa, chẳng vớt nó lên làm gì”. Hoàng Nguyên | |
|
Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2009
Từ vựng ngành báo chí
Nghề nào cũng có Jargon!

TTO - Nói đến một bài báo, hầu như 99% người bình thường sẽ dùng từ “article” trong khi dân làm báo sẽ dùng từ “story”. Đấy chỉ là một trong những “jargon” (từ trong nghề) của nghề báo.
Ví dụ, dòng ghi tên tác giả được gọi là “byline”, câu dẫn vào bài là “lead”, một đoạn trong bài báo là “graph” và đoạn mở đầu bài, giới thiệu nội dung chính của bài báo là “nutgraph”. Ở đây nên phân biệt, câu nằm ngay dưới tít (headline hay head) co chữ nhỏ hơn tít nhưng lớn hơn co chữ trong bài, làm rõ hơn nội dung của tít gọi là “deck”, ở nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng bởi tiếng Pháp nên có thể độc giả thường nghe từ sa-pô (chapeau) hơn.
Có lẽ với từ “quote” (câu trích dẫn) thì không có gì khác với tiếng Anh thông thường nhưng từ “pull quote” (câu trích được in riêng, chữ to để thu hút sự chú ý của người đọc) là một jargon. Và cuối bài, đôi lúc người ta ghi thêm địa chỉ liên lạc của người viết, gọi là “tagline”. Câu “xem tiếp trang...” được dân trong nghề gọi là “jump line”, còn câu rao quảng cáo cho một bài “không thể bỏ qua” ở trang khác gọi là “teaser”.
Chú thích cho ảnh hay minh họa thông thường là “caption” nhưng dân trong nghề lại thích dùng từ “cutline” hơn. Tên của tờ báo được gọi là “flag”, cho nên tờ báo chính trong một cơ quan báo chí có nhiều ấn phẩm là flagship publication. Thông thường ở trang trong có một ô ghi tên các nhân vật chính của tờ báo kèm theo các thông tin quan trọng khác gọi là “masthead”.
Những từ nói trên dù sao cũng là jargon nên người bình thường gặp chúng phải tra cứu để hiểu nghĩa. Khó hơn là các từ thông thường nhưng được dân làm báo dùng theo nghĩa khác. Ví dụ, tờ The Economist thường dùng cách đăng một bài dài, đầy đủ chi tiết ở trang trong nhưng trước đó thường tóm tắt nội dung rồi bày tỏ ý kiến của tờ báo về vấn đề đó ở những trang đầu - cái này họ gọi là “leader”. Tờ báo nổi tiếng này cũng có một cách làm không giống ai - các bài không bao giờ ghi byline, tờ báo không ghi tên tổng biên tập và ông này chỉ được xuất hiện danh chính ngôn thuận trong bài báo chia tay với độc giả khi hết làm cho The Economist. Họ quan niệm tổng thể nội dung tờ báo quan trọng hơn từng cá nhân người viết. Dĩ nhiên khi mời những nhân vật nổi tiếng như Tony Blair viết thì báo phải ghi tên tác giả.
Ở đây xin mở ngoặc nói thêm một chút về chức danh tổng biên tập và từ editor. Các báo Việt Nam khi dịch sang tiếng Anh thích dùng từ editor-in-chief trong khi báo Anh, báo Mỹ ngày nay thường dùng đơn giản là editor. Đôi lúc họ cũng dùng editor-in-chief nhưng đó là tờ báo có nhiều ấn bản, mỗi ấn bản có một editor phụ trách. Biên tập viên là copy editor (tiếng Anh của người Anh dùng sub-editor); trưởng ban thời sự là news editor, thư ký tòa soạn là managing editor, các cộng tác viên thân thiết, là người nổi tiếng được gọi là editor-at-large...
Một số ví dụ khác, với đa số mọi người “art” là nghệ thuật nhưng khi dùng trong hoạt động của một tòa soạn nó mang nghĩa mọi thứ minh họa như ảnh, bản đồ, biểu đồ, tranh biếm. Nghĩa thông thường của beat là đánh nhưng với phóng viên, đó là lĩnh vực được phân công phụ trách (như education beat); copy là sao chép nhưng với tòa soạn, chúng là toàn bộ bài vở cho tờ báo; dummy là người ngu ngốc nhưng với dân trình bày báo, nó là bản vẽ phác thảo hình thù tờ báo sẽ dàn trang mà nhiều người đã quen với từ tiếng Pháp - ma-két (maquette).
Trong nghề báo, phóng viên ghét nhất là khi bài của mình được xếp vào loại filler - tức là tin bài không hay ho gì, đăng cũng được, không đăng cũng chẳng chết ai, chủ yếu dùng để trám vào chỗ trống. Ngược lại khi săn được tin chưa báo nào biết, họ đã giành được một scoop. Trên trang báo, bên cạnh bài chính, có những thông tin bổ sung thường nhìn ở góc độ khác gọi là sidebar. Với sự phổ biến rộng các trang blog, một từ mới xuất hiện để chỉ các “nhà báo nhân dân” - tức người viết báo không chuyên, sử dụng blog để đăng tải bài viết của mình: “citizen journalist”.
Cuối cùng xin giới thiệu các từ nói về các loại báo. Nếu xét về khổ báo, có từ broadsheet để chỉ báo khổ lớn; báo khổ vừa (như nhiều tờ báo ngày ở nước ta hiện nay) “bị” gọi là tabloid. Dùng từ “bị” vì từ tabloid hàm ý xấu, chỉ loại báo chuyên đăng chuyện giật gân, câu khách. Vì thế một số tờ khổ vừa đã phải quảng bá: “broadsheet quality in a tabloid format”! Hiện nay dân Anh đã phát minh một từ để tránh hàm ý xấu của tabloid bằng cách gọi báo khổ vừa là compact newspaper. Về nội dung, các tờ báo tuần như Time, Newsweek vừa là newspaper, vừa có hình thức như một magazine nên được xếp vào loại newsmagazine.
(TBKTSG, ngày 21-6-2007)
Thứ Sáu, 13 tháng 3, 2009
I wish a book case
Thứ Năm, 12 tháng 3, 2009
The Reborn Neues Museum - NYT

A view of the museum in 1964. It opened in 1855 as part of “Museum Island,” a complex of museums at the center of Berlin, with its displays of art and archeology
Mỗi khi nhìn một tòa nhà cổ được phát lộ, có thể là một biệt thự trong ngõ phố Hà Nội, có thể là một ngôi nhà mái ngói Pháp xây theo kiểu Đông Dương ngay trên ngã ba một con đường về Phan Thiết, một gian nhà ngói nâu rộng lớn như cánh đại bàng ở Long Xuyên, lớp vôi vàng ánh trong nắng tà huy, bâng khuâng, bâng khuâng với vẻ đẹp còn sót lại.

A photograph dated November 1943 shows an interior space in ruins. The building, as well as the art inside that was too large to move for safekeeping, suffered more than any other structure in the complex from World War II bombs.
Chiến tranh làm thiệt hại về người, và phá hủy cả những tài sản, những vẻ đẹp mà người ta nâng niu nó biết bao ngày tháng trước

Bullet holes and shell marks dating back to the war have been left, unfixed and visible, on many walls.
Khi tôn tạo lại di tích văn hóa, người Đức để lại hết, cố giữ nguyên cả những phông mảng quanh di tích đó, khôgn có quét sơn lại cho đẹp, lát lại sàn cho hiện đại, hay dùng kỹ thuật mài nào đó cho vết đạn được tròn trịa... Không! cứ để nguyên như vậy
Từ chiến thắng Buôn Ma Thuột nghĩ về địa chiến lược Tây Nguyên
Vietnamnet viết bài này mạnh mồm ghê 10/03/2009 10:20 (GMT + 7) | |||||||
(TuanVietNam) - "Tây Nguyên luôn luôn là địa chính trị, địa chiến lược và địa kinh tế của Việt Nam. Chúng ta phải biết cách bảo vệ gìn giữ yếu huyệt này. Khai thác Tây Nguyên cho mục đích kinh tế phải hết sức cẩn trọng, cân đối giữa bảo vệ sinh tồn và an ninh phát triển." | |||||||
Nhân kỷ niệm 34 năm chiến thắng Buôn Ma Thuột, điểm mở đầu trúng huyệt dẫn tới chiến thắng lịch sử 30/4/1975, Đại tá Nguyễn Huy Toàn, chuyên gia lịch sử quân sự và đại tá Quách Hải Lượng, chuyên viên cao cấp Viện nghiên cứu Chiến lược Quân sự phân tích về vị trí chiến lược của Tây Nguyên và những vấn đề đặt ra khi phát triển khu vực trọng yếu này.
“Ai chiếm được Tây Nguyên sẽ làm chủ Việt Nam và Đông Dương” Từ xưa đến nay, khi nghiên cứu về Việt Nam, người ta thường đánh giá Tây Nguyên là địa bàn chiến lược, có giá trị rất lớn về mặt quân sự, kinh tế, chiến lược. Cha ông từ xa xưa đã nhận định vùng Tây Nguyên quan trọng tới mức nếu ai chiếm được Tây Nguyên thì coi như đã làm chủ được Việt Nam và Đông Dương. Sau này, người Pháp, người Mỹ và thế giới cũng nhận thức được vị trí yết hầu của khu vực này với câu nói nổi tiếng: Đây là “nóc nhà của Đông Dương”. Vùng đất này liền kề ngã ba Đông Dương, cho nên khi chiếm lĩnh được khu vực này thì cũng dễ dàng chiếm lĩnh được toàn bộ Đông Dương. Việc này được chứng minh rất rõ. Trong kháng chiến chống Pháp, Bắc Bộ mới là chiến trường chính. Nhưng khi mở chiến dịch Điện Biên Phủ, ta mở 7 chiến dịch ở 7 khu vực, trong đó, có một trận rất lớn được mở ở Tây Nguyên để bẻ gãy binh đoàn 100 của Pháp. Sau đó ta mới làm trận Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Trong kháng chiến chống Pháp, Tây Nguyên có vị trí quan trọng như vậy. Người Mỹ ngay khi vào Việt Nam đã nắm bắt được vị trí chiến lược của Tây Nguyên và tập trung tinh lực mạnh vào đây. Các tướng lĩnh Sài Gòn được giao nhiệm vụ chỉ huy ở khu vực này đều là những tướng sừng sỏ trận mạc nhất. Có biết bao trận đánh mà chúng ta chưa thể giành lại được Tây Nguyên và cuộc chiến tranh cứ kéo dài mãi tới 20 năm. Buôn Ma Thuột – đòn mở đầu trúng huyệt
Mùa xuân năm 1975, khi hạ quyết tâm chiến lược để tổng tiến công, tổng nổi dạy ở Miền Nam, Bộ Chính trị có cuộc họp hết sức quan trọng. Tổng Bí thư Lê Duẩn nêu vấn đề: Chúng ta phải “điểm huyệt” ở đâu? Và ông đã nói: phải “điểm huyệt” Buôn Ma Thuột. Vì nếu điểm huyệt được Buôn Ma Thuột, toàn bộ miền Nam sẽ rung chuyển, dẫn đến rút lui chiến lược ở Huế, Đà Nẵng, và đó là thời cơ để chúng ta thần tốc, thần tốc và thần tốc giải phóng miền Nam. Trong chiến dịch Tây Nguyên, để bảo đảm chắc thắng trong trận then chốt Buôn Ma Thuột, từ ngày 4/3/1975, ta đã tiến công quy mô vừa và nhỏ ở Pleiku và Kontum để nghi binh, cắt đường 19, đường 21 nối với đồng bằng khu 5, ngày 8/3 đánh chiếm Thuần Mẫn, cắt đứt đường 14 giữa Pleiku và Buôn Ma Thuột; ngày 9/3 đánh chiếm khu Đức Lập, Núi Lửa làm cho Buôn Ma Thuột bị cô lập hòan toàn. 2 giờ sáng ngày 10/3, ta tập trung một lực lượng mạnh, hiệp đồng binh chủng đánh thẳng vào Buôn Ma Thuột, mở đầu chiến dịch Tây Nguyên, cũng là mở cửa đột phá của cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975. Đến ngày 24/3, chiến dịch Tây Nguyên kết thúc, ta giải phóng toàn bộ vùng chiến lược Tây Nguyên. Cái tài tình của chiến dịch là ta đã chọn và điểm trúng huyệt trọng yếu của địch, làm vỡ thế trận ngay từ đầu, từ thất bại về chiến dịch trở thành thất bại về chiến lược. Cẩn trọng khi khai thác Tây Nguyên
Chính vì vậy, trong suốt hơn 30 năm hòa bình, thống nhất Tổ quốc, các thế lực thù địch vẫn không thôi nhòm ngó và tìm cách kích động, quấy phá ở khu vực này. Hai cuộc bạo loạn năm 2001 và 2004 đã minh chứng rất rõ về tính chất nhạy cảm và ý nghĩa chiến lược của khu vực này đối với an ninh quốc gia. Nằm trong vành đai núi lửa Thái Bình Dương nên Tây Nguyên cực kỳ giàu tài nguyên, không chỉ bô-xít mà còn nhiều loại khoáng sản quý hiếm khác. Vấn đề là trữ lượng của những mỏ này rất ít, nếu khai thác thủ công thì không đủ hoàn vốn, còn khai thác công nghiệp, thì chưa triển khai xong, mỏ đã cạn kiệt. Hoặc trữ lượng lớn như bô xít thì lại phân bố trên địa tầng mỏng, diện rộng nên khi khai thác phải bóc bỏ đi cả một lớp thực vật, ảnh hưởng đến môi sinh. Vì vậy, nếu đặt vấn đề khai thác cần phải cân nhắc rất kỹ lưỡng. Điều quan trọng hơn cần lưu ý, không giống như dầu khí có thể làm với người Nga, người Mỹ, khu vực này rất không nên đưa bất cứ một người nước ngoài nào vào khai thác vì đây là địa chính trị, địa kinh tế và địa quân sự rất nhạy cảm. Nhìn ra thế giới, nước nào cũng vậy, cũng có những vùng cấm, khu vực cấm đối với người nước ngoài. Ta cũng phải biết giữ yếu huyệt này. Thật ra, phát triển kinh tế là nhu cầu bức thiết và chính đáng của cả dân tộc này, kể từ người lãnh đạo cao nhất đến những người dân thường. Nhưng khi thực hiện, đòi hỏi chúng ta phải thông minh, biết cân đối giữa dựng nước và giữ nước, giữa giữ vững an ninh quốc gia và xây dựng phát triển đất nước, giữa vấn đề kinh tế thị trường và những vấn đề liên quan tới bảo vệ sinh tồn và an ninh phát triển. Nếu không suy nghĩ được một cách tổng hợp như vậy, lệch theo hướng nào cũng để lại những nguy hại về lâu dài. Tây Nguyên luôn luôn là địa chính trị, địa chiến lược và địa kinh tế của Việt Nam. Chúng ta phải biết cách bảo vệ gìn giữ yếu huyệt này. Nhiều khi phải bỏ qua lợi ích kinh tế trước mắt để bảo vệ lợi ích lâu dài của dân tộc. Nếu chỉ vì lợi ích trước mắt, chúng ta sẽ có tội với thế hệ mai sau.
|
Thứ Tư, 11 tháng 3, 2009
Vương Trí Nhàn: Làng, phố và nỗi buồn thương nhân
khi tôi đề xuất “Thử nhìn những biến động kinh tế xã hội hiện nay dưới góc độ văn hóa” thì được nhiều bạn động viên, bảo cứ thử trình bày đi rồi cùng trao đổi thêm. Thì ra trước đây, chúng ta chỉ chú tâm nghiên cứu về con người Việt Nam yêu nước, con người đánh giặc mà hầu như chưa có những nghiên cứu cần thiết về khía cạnh bình thường nhất của con người Việt Nam từ xưa, nó đã và đang bộc lộ trong con người Việt Nam hôm nay!
....
tôi chợt nhận ra một điều nếu bảo trong đời sống nói chung người Việt Nam nhiều nhược điểm, hẳn nhiều người còn phân vân; nhưng nếu nhận xét “Người Việt Nam sản xuất, kinh doanh kém”, sẽ nhận được nhiều đồng tình. Vì rõ ràng ai cũng thấy hàng hóa của ta từ xưa đến nay làm ra vẫn rất nghèo nàn về chủng loại, đơn giản về mẫu mã, hạn chế về chất lượng… từ nhà cửa, đường sá đến các vật phẩm thông thường đôi giày đôi dép cái chai cái lọ, cái gì chúng ta cũng quá đơn sơ. Chúng ta kém không phải vì chúng ta nghèo, không được thiên nhiên ưu đãi. Ngược lại, cái chính là chúng ta không biết tận dụng thuận lợi, không biết tổ chức sản xuất, không hình dung ra một đời sống như nó có thể có và đang bày ra trong thế giới hiện đại.
Nguyên nhân chính của tình trạng trên trước hết là do những quan niệm chật hẹp, đơn giản về thế giới, ở tầm mắt hạn chế, ở sự thiếu nỗ lực vươn tới cái hoàn thiện, hoàn hảo…của người Việt.
Nói thẳng ra, tư duy tiểu nông vẫn đang ngự trị đời sống đương đại của chúng ta. Những lạc hậu, cổ hủ trong quá khứ vẫn đang níu kéo chúng ta.
Có một hiện tượng mà tôi tạm mô tả là sự suy đồi của nông thôn trong đời sống hiện đại. Người nông dân bị bứt ra khỏi ruộng đất, tràn ra thành phố quăng mình kiếm sống. Cuộc mưu sinh cuồng nhiệt đó hay ít dở nhiều, không cho họ nhiều cơ hội nâng cao trình độ làm người, đã biến họ thành nô lệ cho những nhu cầu vật chất, hưởng thụ…
Tạm kể ra đây những thói quen xấu như: sống tạm bợ, ăn tối lo mai, không tính toán lâu dài, lãng phí, ít chịu đi xa, không dám sống khác đi so với những gì vốn có... Nói chung, người mình ít đặt đầu óc vào sự sống với tất cả những biểu hiện phong phú của nó; ít nghĩ chu đáo về mình, về người khác và về xã hội.
Tư duy tiểu nông cũng là nguyên nhân sâu xa khiến nền giáo dục ở ta từ xưa đến nay kém phát triển. Vẫn là quan niệm đơn sơ về sự học của bà mẹ nông dân mù chữ dắt con đến gửi thầy đồ làng “xin thầy dạy cháu mấy chữ để biết đọc tên mình ký được tờ văn tự , hiểu vài điều lễ nghĩa ”. Ấy cái loại mới đôi chữ võ vẽ thôi đó, sau cũng được xếp vào hàng “có học” rồi, hỏi làm sao mà dám tự nhận là xã hội có một lớp người biết học!
Chúng ta đã quen dễ dãi với bản thân, quen không đặt yêu cầu cao với chính mình quá rồi. Gần đây lại tư tưởng bình quân chi phối, với một nền kinh tế như thế này mà đòi hỏi giáo dục phổ cập, thanh thiếu niên đến tuổi ai cũng được đi học,-- thì trách chi trường không ra trường lớp không ra lớp, sinh viên đại học ra trường không cơ quan xí nghiệp nào muốn nhận.
Sự trì trệ trong giáo dục như tất cả đang biết, đã là một minh chứng cho sự phát triển theo lối ăn xổi ở thì và thiếu nhìn xa trông rộng. Tôi lo cho những nếp cũ bám rễ trong ta sâu sắc quá, khó mà gột rửa được! Khủng hoảng kinh tế thì còn có thể hồi phục được chứ sự khủng hoảng, xuống cấp về đạo đức, văn hóa thì rất khó chữa, rất đáng lo ngại bởi nó sẽ làm cho sự phát triển kinh tế trở nên vô nghĩa. Mà đấy là lạc quan rồi giả dụ thế thôi, chứ thiếu nền tảng chắc chắn về văn hoá giáo dục thì phát triển kinh tế làm sao bền vững được.
Về Hà Nội
Bây giờ nói cụ thể về Hà Nội. Trong quá khứ Hà Nội của chúng ta hình thành bởi những mục đích quân sự (gắn liền với các toà thành), rồi dặm thêm vào đó mới có thêm những dãy chợ, người bán hàng phần chủ yếu là nông dân và thợ thủ công đem sản vật ở quê lên bán, có định cư ở đây cũng tạm thời, bụng dạ vẫn để cả ở quê. Bước sang thời hiện đại, Hà Nôi có một thời gian định hình là đầu thế kỷ XX. Ở đây, những gì tốt đẹp đã được sàng lọc để trụ lại được (ví dụ, người đem hàng hóa lên đô thị bán, hàng đẹp mới bán được, hàng xấu phải mang về, thợ giỏi mới sống được ở Hà Nội thợ kém chỉ thất nghiệp). Lúc đó nó trở thành đô thị với đúng nghiã của nó, nơi thu hút những tinh hoa của xã hội.
Nhưng rồi mấy chục năm trời đất nước chìm trong biến động, người ở các tỉnh lẻ dồn về ào ạt tự phát. Lần đổ bộ thứ nhất là trong chiến tranh, lần đổ bộ thứ hai là cuộc mưu sinh hỗn độn trong thời hậu chiến. Xét về cấu trúc dân cư Hà Nội chỉ còn là đô thị của những người nhập cư. Khi những lớp người nhập cư qua các thời kỳ chồng lên nhau, tinh chất của Hà Nội ngày càng trở nên mong manh và dễ bị tàn phá. Nói Hà Nội chưa bao giờ trở lại là chính mình chắc cũng không phải là quá.
Trong điều kiện chiến tranh kéo dài cả đất nước như là có sự thụt lùi nói chung, Hà Nội có trở nên nham nhở tầm thường đi cũng là lẽ đương nhiên. Nền văn hoá tự phát của nông thôn xô tới ngự trị và chi phối các đô thị nói chung, không chỉ Hà Nội mà cả TP HCM và một số đô thị khác, khiến chúng trở thành những đô thị lép vế, đô thị bị tàn phá, bị kìm hãm. Điều đó đem lại thiệt thòi chung cho tất cả chúng ta.
Người Hà Nội
Xảy ra tình trạng “lại gạo” của các đô thị, phố mà như làng, muốn bảo làng nào là phố là phường cũng được.
Một điều ai đã sống hết với những thăng trầm của Hà Nội lâu hẳn thấy rõ là trước 1945, người tứ xứ lên đô thị luôn luôn có ý thức học hỏi, họ biết rằng cần phải từ bỏ cái nếp sống tuỳ tiện ở các làng quê mới trở thành người đô thị chân chính. Từ sau 1945, thì khác, người nông thôn lên đô thị mà vẫn giữ nguyên cái nếp sống sẵn có, lại luôn luôn cho rằng sống như mình mới là thuần hậu tốt đẹp giữ vững truyền thống chân quê. Cần nói thêm là như vậy trong khi góp phần vào việc níu kéo Hà Nội, họ cũng bỏ qua luôn cái khả năng làm thay đổi đời mình tự nâng mình lên để trở thành con người hiện đại.
người Hà Nội thực sự luôn luôn hướng về nó, luôn luôn cảm thấy mình chưa xứng đáng với cái danh hiệu cao quý đó. Chính lớp Hà Nội mới nhập cư lại có sự tự hào quàng xiên về cái danh hão như bạn vừa nói. Nếu là người Hà Nội thực sự, họ sẽ không bao giờ nói thế, không bao giờ tự cho phép mình không thanh lịch chứ đừng nói là trâng tráo khoe khoang kiểu đó.
Doanh nhân và con buôn
Phần này viết hay nữa. Tốt nhất là đọc lại từ đầu, cả bài
Thứ Tư, 4 tháng 3, 2009
Sống trong đời sống cần có một tấm lòng
Sai và đúng, nếu cứ vậy thôi, cuộc sống cũng giản dị thôi. Nhưng mỗi ngày, chúng ta không sống giản dị như vậy. Vẫn có những đêm khuya ngồi nghĩ những điều còn trăn trở. Liệu ngày trôi qua, chúng ta có làm cho sai và đúng được rõ ràng, hiệu quả. Người mà chúng ta muốn họ hiểu sai đúng có hiểu điều đó hay không, họ hiểu với một tấm lòng như thế nào, chúng ta đã từng làm gì, đã làm như thế nào để họ hiểu vấn đề sai hay đúng đó.
Thầy nói với tôi, sai với đúng cũng dễ phải không em. Nhưng chúng ta là con người mà. Chúng ta nên đối với nhau cho nó có lòng nhân. Sai với đúng thì cũng dễ thôi. Nhưng làm con người với nhau mới khó, tôi bây giờ mới hiểu điều đó.
Có nhiều khi, tức tối, kiêu ngạo, ngu xuẩn, biến chúng ta từ người thành nhiều thứ con vật này, con vật kia trong giây phút. Để một ngày nào đó, chúng ta thảng thốt xấu hổ với những ngày đã trôi qua mất rồi.

Mỗi ngày lại học thêm của thầy một bài học. Một cử chỉ nho nhỏ cho em biết những lỗ hổng lớn của mình. Cám ơn thầy !
Vừa cảm động, vừa bồi hồi, vừa thấy cuộc sống ý nghĩa, vừa thấy lo lắng với sự nhỏ bé của mình. Nhiều thứ quá, nhiều thứ trước mắt quá....
Thứ Ba, 3 tháng 3, 2009
Tập viết thư- Quy tắc 2.10
Theo mình là chưa.
Quy tắc 2.10: Chú ý đến cách viết.
Chúng ta viết với hai mục đích: viết cho người khác đọc, và viết cho bản thân mình đọc. Viết cho bản thân không phải là điều quan trọng. Viết cho người khác đọc là chuyện không đơn giản.
Về cơ bản, các thầy ở các trường xóa mù chữ sẽ dậy các vấn đề như font chữ, cỡ chữ, nghiêng đậm, lùi ra thụt vào đầu dòng, viết sao cho rõ ràng ý nghĩa...
Nhưng cấp độ chưởng lực cao hơn, chúng ta phải vận nội công mà nghĩ cho tỏ tường, kín kẽ một vấn đề này. Người mà chúng ta mong họ đọc, họ là ai, làm chức vụ gì có to không, những người đó muốn gì, mình làm thế nào để họ thấy thông tin thì rõ ràng, mà đọc họ thấy vui trong lòng, hay còn gọi là hài lòng, thỏa mãn cái tôi của họ. Còn bản thân bạn chức có to hay không, danh thiếp có vang dội hay không, chuyện đó cũng chẳng cần viết vào bức thư này. Vô hình chung, bức thư có 2 phần rất quan trọng, một là thông tin. Hai là người đọc.
Riêng cái quy tắc này thôi, hiểu được nó, thấm được nó, và luyện được nó cũng mất một thời gian dài cho những đứa không phải thông minh đột xuất như mình. Mặc dù đi làm được tất cả là 5 năm rồi, hôm nay mình mới được học vỡ lòng từ đầu chí cuối, làm thế nào để viết một bức thư.
Cái quy tắc này, nhìn rộng ra, nó không chỉ đơn thuần áp dụng cho mỗi chuyện viết thư. Nó còn là cách ứng xử hàng ngày giữa con người với con người. Nó có thể áp dụng nhiều hình thức: nói chuyện, viết thư, cách hành xử.
Chân thành cám ơn thầy giáo.
Hôm nay đã quyết tâm mua một cuốn sách Work rules, sau khi bị thầy giáo sửa lưng cho vài lần. Sẽ cố gắng sửa từng thứ một, dần dần. Gần 30 tuổi rồi vẫn phải mua sách giáo khoa vỡ lòng về đọc. Cũng không có vấn đề gì. Hôm nay bức xúc bản thân ghê...
Lâu lắm rồi mới có cảm giác thấp thỏm như kiểu đi thi, sẵn sàng một ngày mới, thèm được đặt hai ngón trỏ vào phím F và J mỗi sáng, bực bội, xấu hổ vì những công việc còn chưa tròn trịa.
Và lâu lắm mới thấy một ngày vui thật.

Chủ Nhật, 1 tháng 3, 2009
Đặng Chân Nhân và một hồn thơ trong trẻo
Màu đen là sự tối tăm.
Màu đen là sự lạnh lẽo.
Màu đen là sự trống không.
Màu đen là thứ cuối cùng tồn tại
khi mọi thứ khác không còn.
Màu đen
chỉ đơn giản là
vượt quá sự tồn tại.
Thời gian
Thời gian luôn luôn chuyển động.
Tíc tắc.
Nó không bao giờ
chờ đợi một thứ gì.
chờ đợi một ai đó.
Bạn bị muộn.
Và không có gì để bạn đổ lỗi,
và bạn đổ lỗi cho một thứ
mà sẽ cứ đi mãi mãi,
thời gian.
Chuẩn bị cho lời chia tay
Con người đã tạo ra một thứ rất nặng
mà họ không thể chịu được nữa.
bầu khí quyển yếu dần.
băng tan.
ô nhiễm môi trường.
nhiệt độ tăng dần.
thiên tai.
những con virus.
dân số tăng.
những tên khủng bố.
Một ngày gần đây
Con người sẽ biến mất mãi mãi
Khi những thứ đó sẽ tới
Và dẹp hết đi,
từ trong ra ngoài.
Chuẩn bị tạm biệt tới mọi thứ,
và gửi lời chào tới sự kết thúc,
và gửi lời chào tới một mở đầu mới.
Đặng Chân Nhân
thêm những bài rất hay nữa ở đây